Lifehack.vn

5 vị Tổng thống Mỹ từng phải che giấu tình trạng sức khoẻ

Rất nhiều người dân Mỹ quan tâm đến tình trạng thể chất của Tổng thống Donald J. Trump đặt câu hỏi rằng không biết liệu tình hình sức khoẻ của vị đương kim tổng thống có phải đã hoàn toàn được công khai. Bác sĩ tại Nhà Trắng cho biết sức khoẻ của tổng thống hoàn toàn bình thường, tuy nhiên các chuyên gia đang nghi ngờ nhận định này bởi Tổng thống Trump vốn có tiền sử về lượng cholesterol trong máu cao. Ông có thể sẽ không phải là vị Tổng thống đầu tiên cố gắng thể hiện rằng mình hoàn toàn khoẻ mạnh. Đây là năm vị tổng thống Mỹ đã phải chiến đấu với bệnh tật khi vẫn còn đương nhiệm nhưng đã cố gắng giấu bệnh để công chúng không hoảng loạn.

Tổng thống John F. Kennedy đeo nạng vì bị đau lưng.

  1. John F. Kennedy

Hình ảnh của John F. Kennedy trong mắt hầu hết mọi người là biểu tượng của tuổi trẻ và sức sống. Nhưng sự thật là hình ảnh đó được tạo ra là có mục đích. Trên thực tế thì JFK gần như luôn phải sống trong đau đớn, tuy nhiên tình trạng sức khoẻ yếu kém của ông đã được giữ bí mật chặt chẽ, nếu không sự nghiệp chính trị của ông sẽ bị huỷ hoại. Ông bị dị ứng, gặp các vấn đề về dạ dày và bị đau lưng kinh niên, hậu quả của việc phục vụ chiến đấu trong Thế chiến thứ hai. Những bệnh này ngày càng nặng hơn và ông phải trải qua nhiều lần phẫu thuật. Ông bắt đầu bị đau lưng từ năm 1937 khi còn là sinh viên của Đại học Harvard và do đó ông không được phép nhập ngũ (sau này cha ông đã sử dụng các quan hệ để giúp ông gia nhập Hải quân Trừ bị). Nhưng trước đó ông cũng đã ốm yếu rồi. Từ nhỏ ông đã gặp các vấn đề về dạ dày – ruột mà sau này được chẩn đoán là bệnh Addison, một chứng rối loạn nội tiết. Một trong những triệu chứng của bệnh Addison cũng như của thuốc steroid dùng để điều trị bệnh này là hiện tượng tăng sắc tố da mà có lẽ chính là nguyên nhân khiến cho da của ông bị “rám nắng” vĩnh viễn. Đây là điều mà những người theo dõi cuộc tranh luận qua truyền hình giữa ông với Richard Nixon chắc chắn đã để ý thấy.

Franklin Roosevelt ngồi xe lăn cùng chú chó của ông và Ruthie Bie, con gái của người quản gia tại Hyde Park.

  1. Franklin Delano Roosevelt

Ngày nay hầu hết người dân Mỹ đều biết rằng vị tổng thống phục vụ đất nước lâu nhất của họ là người mắc bệnh bại liệt và phải ngồi xe lăn để di chuyển. Thế nhưng trong suốt nhiệm kỳ làm tổng chỉ huy lực lượng quân sự, ông đã che giấu tình trạng sức khoẻ nghiêm trọng đến mức gần như không thể tượng được theo các tiêu chuẩn hiện nay. Ông được chẩn đoán mắc bệnh bại liệt năm 1921 khi 39 tuổi. Đây là trường hợp bất thường bởi hầu hết các bệnh nhân mắc chứng bại liệt vào thời đó đều là trẻ em dưới 4 tuổi. Roosevelt làm việc không biết mệt mỏi để phục hồi cơ thể trong những năm sau đó. Do không thể cử động được phần thân dưới của mình, ông đã sử dụng chiếc xe lăn được thiết kế đặc biệt để di chuyển. Khi làm tổng thống, ông muốn cho mọi người thấy hình ảnh người lãnh đạo mạnh khoẻ và tràn đầy sức sống nên ông đã nghĩ ra cách để “đi lại” khi xuất hiện trước công chúng bằng cách đeo nẹp chân, chống gậy và vịn vào cánh tay của con trai ông hoặc một cố vấn tin cậy. Thêm nữa, ông còn yêu cầu giới báo chí không được chụp ảnh lúc ông đi bộ hay lúc đang ra khỏi xe hơi và mật vụ phải can thiệp trước những trường hợp có ý định chụp những bức ảnh cho thấy tổng thống đang trong tình trạng thể chất “yếu”.

Tổng thống Woodrow Wilson cùng người vợ thứ hai Edith Bolling Galt Wilson, người thường được gọi là “tổng thống bí mật” vì có vai trò rất quan trọng trong nhiệm kỳ tổng thống của Wilson suốt thời kỳ ông bị suy nhược kéo dài sau cơn đột quỵ.

  1. Woodrow Wilson

Khi Woodrow Wilson nhậm chức vào năm 1913, bác sĩ quân y nổi tiếng Silas Weir Mitchell đã dự đoán rằng có thể ông sẽ không hoàn thành được nhiệm kỳ đầu của mình vì lý do sức khoẻ. Dự đoán này hoá ra lại không đúng, tuy có vài lần Wilson đã khiến công chúng hoang mang về tình hình sức khoẻ của mình khi ông làm tổng thống. Năm 1919, một bác sĩ đã lưu ý với Wilson rằng một bên miệng của ông đang ngày càng trễ xuống, đây là dấu hiệu điển hình của chứng đột quỵ ở mức độ nhẹ (minor stroke). Triệu chứng này ngày càng trầm trọng và đến tháng 10 năm đó, vị tổng thống thức dậy phát hiện ra cơ thể mình đã bị liệt một phần. Vợ ông ngay lập tức vừa lên tiếng bảo vệ danh tiếng cho ông vừa trấn an chính quyền. Về cơ bản, bà đã đảm nhiệm vai trò tổng thống thay cho chồng và che giấu tình hình sức khoẻ thật sự của Wilson cho đến khi nhiệm kỳ của ông kết thúc vào năm 1921.

Câu hỏi đặt ra là vì sao Phó Tổng thống Thomas Marshall khi đó lại không lên tiếp quản vị trí tổng thống? Vào năm 1919 thì các đạo luật về kế nhiệm tống trong trường hợp liên quan đến sức khoẻ chưa được xác định rõ ràng. Đạo luật sửa đổi lần thứ 25 đã không được phê chuẩn cho đến mãi năm 1967 và do đó chính quyền Wilson vẫn áp dụng Điều 2 của hiến pháp, theo đó Phó Tổng thống sẽ lên kế nhiệm trong trường hợp Tổng thống “qua đời, từ chức, hoặc không đủ khả năng để thi hành quyền lực và nhiệm vụ của vị trí nói trên.” Rõ ràng là Wilson vẫn còn sống và ông cũng không có ý định từ chức trong hoàn cảnh đó, và do vậy Phó Tổng thống đã từ chối kế nhiệm, trừ khi Quốc hội thông qua một nghị quyết tuyên bố vị trí Tổng thống đang bị trống.

Tổng thống Eisenhower chụp những bức ảnh đầu tiên sau cơn đau tim. Chiếc áo đỏ ông mặc ghi chữ “Much Better Thanks” (“Khoẻ hơn nhiều rồi. Xin cảm ơn mọi người”) ở trên túi áo.

  1. Dwight D. Eisenhower

Khi Eisenhower được bầu làm Tổng thống năm 1952 thì ông đã mắc chứng dính bụng do phẫu thuật mổ ruột thừa từ năm 1923. Nhưng các vấn đề sức khoẻ của ông chưa dừng lại ở đó. Năm 1955 ông trải qua một cơn đau tim, và dù cho ông đã khẳng định với công chúng là sức khoẻ của mình đã hồi phục nhưng bác sĩ chuyên khoa tim nổi tiếng vẫn ngăn ông ra tái tranh cử (và bị ông phớt lờ). Thế nhưng vấn đề sức khoẻ tiếp theo của Eisenhower lại không phải do bệnh tim của ông gây ra. Năm 1956 ông được chẩn đoán mắc bệnh Crohn, một chứng rối loạn dạ dày – ruột và cần phải phẫu thuật. Ngay sau đó, Eisenhower lại bị đột quỵ vào năm 1957, nhưng ông đã cố gắng hoàn thành được nhiệm kỳ của mình. Những cơn đau tim vẫn tiếp tục tái phát cho đến khi ông qua đời vào năm 1969.

Tổng thống Ronald Reagan họp với các cố vấn khi đang nằm viện để phẫu thuật ung thư ruột kết, năm 1985.

  1. Ronald Reagan

5 năm sau khi hoàn tất nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của mình, Ronald Reagan được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer. Con trai ông, Ron Reagan cho biết ông đã thấy cha mình có những dấu hiệu của bệnh này khi còn đang làm tổng thống, và các phân tích sau đó đã phát hiện ra có sự biến đổi trong cách sử dụng từ ngữ của Reagan trong thời gian ông đương nhiệm và đó có thể là dấu hiệu của chứng mất trí nhớ. Tuy hầu như không có bằng chứng để kết luận rằng vị Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ mắc bệnh Alzheimer khi ông còn là tổng chỉ huy lực lượng quân sự, nhưng những tin đồn về chứng mất trí nhớ đã gây khó khăn cho ông trong suốt chiến dịch tranh cử tổng thống đầu tiên, trong đó rất nhiều sự chú ý đều đổ dồn vào ứng cử viên 69 tuổi (Reagan là ứng cử viên nhiều tuổi nhất lúc đó). Reagan được xác nhận bị ung thư khi đang làm tổng thống. Vào năm 1985 ông phải cắt bỏ nhiều khối u ở ruột kết, trong đó có một khối u ác tính. Hai năm sau ông lại phải phẫu thuật loại bỏ ung thư biểu mô tế bào đáy ở mũi (ung thư da).

Trịnh Ngọc Hoa (Theo history.com)

Exit mobile version