Dầu cá voi từng là nguyên liệu cực kỳ quan trọng trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Khoảng 58.000 con cá voi đã bị giết để cung cấp lượng dầu cần thiết cho Anh và các nước đồng minh nhằm phục vụ chiến đấu. Vào thời điểm đó, Na Uy, nước giữ lập trường trung lập trong suốt cuộc chiến, là quốc gia thống trị ngành công nghiệp cá voi. Tuy nhiên đội tàu săn cá voi của Na Uy lại chủ yếu hoạt động ở phía Nam Đại Tây Dương thuộc vùng lãnh thổ của Anh. Điều đó nghĩa là Anh được quyền kiểm soát ngành công nghiệp cá voi, có được gần như tất cả số dầu với giá rất thấp. Bằng việc từ chối cho Đức và Áo-Hung tiếp cận nguồn nguyên liệu thô có tầm quan trọng chiến lược này, phe Hiệp Ước đã có được lợi thế rất lớn so với phe Liên Minh.
Tấm áp phích của Đức kêu gọi ngư dân đánh bắt cá heo và hải cẩu để lấy dầu. Nước Anh kiểm soát ngành công nghiệp cá voi trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất dẫn đến tình trạng thiếu dầu tại Đức và Áo–Hung.
Dầu cá voi khi đó còn được dùng để làm xà phòng. Quá trình làm xà phòng còn tạo ra một sản phẩm phụ là glyxerin. Nitrôglyxerin là thành phần chính của thuốc nổ không khói – chất nổ đẩy đạn tiêu chuẩn được sử dụng cho đạn pháo và đạn dược loại nhỏ của Anh. Nhu cầu lớn trong việc sử dụng thuốc nổ không khói đồng nghĩa với việc glyxerin trở thành sản phẩm chính của các nhà máy sản xuất xà phòng trong suốt cuộc chiến.
Dầu cá voi còn được dùng làm dầu bôi trơn chất lượng cao với đặc tính trong suốt, không ăn mòn kim loại và vẫn ở dạng lỏng khi gặp nhiệt độ đóng băng. Những đặc tính này khiến cho dầu cá voi vô cùng lý tưởng để sử dụng cho súng trường, đồng hồ đeo tay, đồng hồ hàng hải cùng nhiều dụng cụ và máy móc khác. Nó cũng là công cụ giúp sợi đay được quay một cách tự động để làm ra vải. Vải đay được dùng để làm bao cát xếp thành các chiến hào cho quân đội Anh. Bên trong những chiến hào ấy, lính Anh bôi dầu cá voi vào chân để tránh bị bợt da chân và họ sưởi ấm quanh những chiếc lò đốt bằng dầu cá voi. Phía trên chiến hào, các phi công Anh bôi mỡ cá voi lên mặt để giữ ấm.
Ở hậu phương, dầu cá voi cũng là một nguyên liệu không thể thiếu. Khi hết bơ và dầu thực vật, dầu cá voi được dùng làm bơ margarine. Điều này được thực hiện nhờ sáng tạo ra quá trình hiđrô hoá cho phép chuyển dầu ở dạng lỏng thành chất béo đặc.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, dầu cá voi vẫn là một nguyên liệu thô quan trọng. Hoạt động săn bắt cá voi tăng nhanh chóng, đỉnh điểm là đầu những năm 1960 khi có khoảng 65.000 con cá voi bị giết hại mỗi năm. Phong trào chống săn cá voi những năm 1970 dẫn đến việc tạm thời ban hành lệnh cấm săn cá voi vì mục đích thương mại và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1985. Ngày nay chỉ còn Na Uy và Iceland vẫn tiếp tục săn bắt cá voi phục vụ mục đích thương mại.
Trịnh Ngọc Hoa (Theo iwm.org.uk)